Phẩm chất cao quý của người phụ nữ đã được hình thành, hun đúc và phát triển trong cả chiều dài lịch sử của dân tộc ta, đó cũng là nét đẹp riêng của người phụ nữ Việt Nam, góp phần không nhỏ tạo nên những giá trị văn hóa và tinh thần dân tộc Việt Nam. Người phụ nữ Việt Nam ngày nay hội tụ cả nét đẹp truyền thống và hiện đại.
Những nét đẹp của truyền thống người phụ nữ được kế thừa những giá trị của Nho giáo khi du nhập vào Việt Nam đó là “Tam tòng”, “Tứ đức”. Theo Nho giáo “Tam tòng” tức người phụ nữ khi sống với cha phải theo cha, “tại gia tòng phụ”, khi đi lấy chồng phải theo chồng “xuất giá tòng phu”, và khi chồng mất phải thủ tiết thờ chồng “phu tử tòng tử”, và người phụ nữ phải có sự hội tụ cả “Tứ đức” đó là người phụ nữ cần phải biết phụ chồng chăm lo gia đình đó là “Công”, người phụ nữ phải có nét đẹp thùy mỵ, e lệ đó là ‘dung”, có ngôn từ nhỏ nhẹ, dịu dàng đó là “ngôn”, người phụ nữ cần có tiết hạnh, phẩm hạnh theo những khuôn phép nhất định đó là “hạnh”.
Bên cạnh đó những nét đẹp truyền thống người phụ nữ được ông cha ta đúc kết qua những giá trị văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, ẩn hiện đằng sau “chiếc áo tứ thân, cái khăn mỏ quạ, cái quần lái đen”, là những nét đẹp “Trung hậu”, “Đảm đang”, “Tinh thần vượt khó” và “Hết lòng vì chồng vì con”:
Đức tính trung hậu là giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, được hình thành và phát triển trong suốt quá trình lịch sử của dân tộc. phẩm chất nhân hậu biểu hiện ở người phụ nữ Việt Nam chính giàu lòng nhân ái, độ lượng, vị tha, thuỷ chung, biết chia sẻ vui buồn với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ và cảm thông với những người có hoàn cảnh đặt biệt, khó khăn, với tinh thần tương thân tương ái "lá lành đùm lá rách", ‘‘Chị ngã em nâng”, lòng nhân hậu là phẩm chất cao đẹp, tôn lên vẻ đẹp quý báu của phụ nữ Việt Nam, nó đã góp phần vào chiến thắng của dân tộc trước đây.
Trong truyền thống văn hóa, người phụ nữ Việt rất coi trọng gia đình, đề cao nghĩa tình, sự thủy chung chồng vợ, thờ phụng tổ tiên, biết ơn cha mẹ, chữ hiếu, tôn trọng người già, lễ nghĩa, trật tự kỷ cương,… Gia đình lại gắn chặt với dòng họ, xóm làng, xã hội tạo nên cộng đồng bền chặt từ trong gia đình ra ngoài xã hội. Nhờ đó, những đóng góp quan trọng của người phụ nữ đối với gia đình cũng chính là đang đóng góp cho xã hội, góp phần tạo nên địa vị cao của họ trong gia đình và ngoài xã hội. Làm tốt trách nhiệm gia đình cũng là làm tốt trách nhiệm với xã hội, đó chính là tinh thần giỏi việc nước, đảm việc nhà của người phụ nữ Việt Nam..
Khi đứng trước những hoàn cảnh khó khăn người phụ nữ Việt Nam không dễ dàng nhụt chí, đầu hàng trước khó khăn, thất bại Họ luôn tìm cách để vượt qua những khó khăn thử thách. Khó khăn không làm họ nản lòng. Thất bại không làm họ gục ngã. Trái lại, họ tìm mọi cách để vươn lên, làm chủ số phận, làm chủ hoàn cảnh.
Trong mọi hoàn cảnh Người phụ nữ Việt Nam luôn biết động viên, khích lệ chồng, con và các thành viên khác cùng tham gia chia sẻ công việc gia đình, nhất là người chồng coi đây là trách nhiệm chung của tất cả mọi thành viên để làm được như vậy đòi hỏi người phụ nữ phải khéo léo, đồng thời cũng cần nhận thức một cách đầy đủ về vai trò, trách nhiệm của mình trong gia đình trên tinh thần bình đẳng. Mặt khác, hiệu quả của việc thu hút mọi thành viên chia sẻ công việc trong gia đình phụ thuộc nhiều vào năng lực tổ chức và ứng xử của người phụ nữ, đòi hỏi khi người phụ nữ cần được trang bị các kiến thức, kỹ năng làm vợ, làm mẹ, làm chủ nhân thực sự của gia đình.
Bên cạnh việc giữ gìn, phát huy những phẩm chất, những giá trị truyền thống người phụ nữ Việt Nam còn mang những nét đẹp và những phẩm chất của người phụ nữ hiện đại đó là người phụ nữ trí thức, làm chủ khoa học, công nghệ, có kỹ năng nghề nghiệp và tự tin, chủ động, sáng tạo để đáp ứng những điều kiện mới nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho bant hân, gia đình và thúc đẩy sự công bằng và tiến bộ của xã hội.
Người phụ nữ Việt Nam hiện đại có năng lực làm chủ khoa học – công nghệ: Thời đại ngày nay khoa học - kỹ thuật ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ,… Sự phát triển đó đòi hỏi người phụ nữ cần phải có ý thức vươn lên nắm vững tri thức, chuyên môn kỹ thuật để có thể làm chủ tri thức mới đáp ứng nhu cầu của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Để có năng lực làm chủ khoa học – công nghệ người phụ nữ phải thường xuyên học tập, rèn luyện gắn với lĩnh vực của mình, đặc biệt đối với lực lượng phụ nữ trí thức cần nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, học tập nâng cao trình độ đặc biệt là trình độ chuyên môn, trình độ tin học và ngoại ngữ.
Người phụ nữ Việt Nam hiện đại có kỹ năng nghề nghiệp: Kỹ năng nghề nghiệp là kết quả của rèn luyện nghề nghiệp không ngừng và tích lũy kinh nghiệm trong cuộc sống, ngày nay để đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển của khoa học – kỹ thuật người phụ nữ cần phải có kỹ năng lao động giỏi, có khả năng thích ứng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật.
Để có được kỹ năng lao động giỏi, có khả năng thích ứng với mọi yêu cầu của xã hội, người phụ nữ cần nhận thức một cách đầy đủ, yêu nghề và nhiệt huyết với nghề. Bên cạnh đó người phụ nữ cũng cần không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, tiếp thu những thành tựu mới trong khoa học nhằm đáp ứng công việc của mình.
Người phụ nữ Việt Nam tự tin, chủ động, sáng tạo: Tự tin, chủ động, sáng tạo là tự tin vào bản thân, sẵn sàng vượt lên định kiến giới, dám nghĩ, giám làm và tin vào sự thành công của bản thân. Người phụ nữ cần phải tự đánh giá những mặt mạnh và mặt yếu của bản thân từ đó thấy được lợi thế tạo sự tự tin và chủ động trong công việc và mọi hoàn cảnh dựa trên năng lực của bản thân vuột qua mọi hoàn cảnh khó khăn. Sự chủ động, sáng tạo thuộc về bản lĩnh của mỗi người, nó không chỉ thể hiện qua ý nghĩ mà còn thể hiện qua thái độ, hành động thực tiễn của bản thân.
Trong xã hội hiện đại, khoa học – công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đòi hỏi người phụ nữ cần phải có sự tự tin, chủ động, sáng tạo phải sẵn sàng vượt qua mọi định kiến về giới, dám nghĩ, dám làm tin vào khả năng của bản thân, chủ động khẳng định được vai trò, vị trí, bản thân. Đồng thời người phụ nữ không ngừng vươn lên tích cực học tập, tiếp thu tri thức mới, nâng cao trình độ nhằm hoàn thành tốt công việc của mình.
Người phụ nữ Việt Nam hiện đại nhận thức rõ vai trò, sự bình đẳng trong tiến bộ xã hội: Ngày nay, người phụ nữ Việt nam vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới, vẫn còn tình trạng ngược đãi ở một số nơi, đặc biệt là những khu vực có trình độ văn hóa và dân trí chưa cao. Xã hội Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng của Nho gia, nên vẫn còn những định kiến về người phụ nữ.
Ngày nay, đaị bộ phận xã hội ngày nay đã nhận thức được vai trò của người phụ nữ, địa vị của họ được nâng cao trong mọi mặt của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, xã hội,… điều này được thể hiện qua tỷ lệ phụ nữ tham gia các công việc trong xã hội. Vấn đề bình đẳng giới cũng được tuyên truyền tăng cường trong mọi ngành nghề, điều này được thể hiện qua báo cáo của UNDP Việt Nam thực hiện quyền bình đẳng giới đứng thứ 11 trên thế giới và thứ 2 khu vực. Công lao, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được khẳng định, người phụ nữ Việt Nam ngày nay không chỉ đảm việc nhà mà còn giỏi việc nước.
Người phụ nữ Việt Nam là sự hiện diện của cả những giá trị truyền thống và những phẩm chất của người phụ nữ thời đại Hồ Chí Minh, điều này đã làm lên phẩm chất, vai trò và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Những phẩm chất ấy có gì đó rất gần với ý thơ của nhà thơ Putkin:
“Trời không ánh sáng hoa nào nở,
Dạ vắng yêu thương cảnh cũng sầu.
Đời thiếu mẹ hiền, không phụ nữ,
Anh hùng, thi sỹ hỏi còn đâu.”